- PV: Thưa PGS, viết và nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì
bao nhiêu cũng chưa đủ nhưng mong ông đưa ra một hướng nhìn mới để chúng ta
cùng thêm hiểu, thêm kính yêu vị Đại tướng, người anh cả của Quân đội nhân dân
Việt Nam?
- PGS.TS Hồ Khang: Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước tiên là vị tướng của nhân
dân và trong lòng dân; ông là mẫu người tiêu biểu cho thế hệ lãnh đạo cách mạng
của thời đại Hồ Chí Minh. Như thế, ông cũng là minh chứng cho sự gắn chặt giữa
chính trị với quân sự: chính trị trước hết là vì dân, quân đội mạnh nhất là quân
đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
Chính những nhà lãnh
đạo cách mạng Việt Nam như Đại tướng là những người đã khơi dậy sức mạnh tổng lực
của toàn thể dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu sinh tử chống kẻ thù xâm lược,
đặc biệt ở những thời điểm khó khăn nhất của lịch sử dân tộc.
Tại Hội thảo khoa học Việt- Mỹ tổ chức
tại Hà Nội năm 1997, một thành viên trong Đoàn cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Macnamara đã hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng trong hai cuộc kháng chiến lớn
của Việt Nam, ai là vị tướng tài ba nhất? Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: Vị
tướng tài giỏi nhất là nhân dân Việt Nam. Có thể nói, sự tôn kính mà nhân dân
Việt Nam dành cho Đại tướng cũng xuất phát từ một cảm thức chính trị như
thế: không chỉ vì những chiến công, mà còn vì Đại tướng là hiện thân cho sự gắn
bó máu thịt với số phận của nhân dân mình, đất nước mình; quân đội mà Đại tướng
là người Anh cả, là Tổng tư lệnh trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, là một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu – một nguyên tắc đảm
bảo cho quân đội đó luôn giữ vững bản chất cách mạng, đủ sức đương đầu và đánh
bại mọi kẻ thù xâm lược. Thế hệ của Đại tướng là thế hệ đã thấm nhuần lời dạy
thiêng liêng với mỗi quân nhân Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta Trung với nước,
Hiếu với dân, nhiệmvụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng chiến thắng.”
- PV: Đề nghị ông nói rõ hơn sự kết hợp tố chất riêng của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp và
nét chung của văn hóa Việt Nam
- PGS.TS Hồ Khang: Trí tuệ của Đại tướng Võ Nguyên giáp là thiên tư kết hợp
với kiến thức uyên bác mà ông có được nhờ trau dồi và học tập trong thực tiễn
đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Đại tướng từng
là một thầy giáo dạy Lịch sử, chính vì thế mà ông có cái nhìn lịch sử; ông biết
người, hiểu mình, hiểu dân tộc mình: một dân tộc, trong lịch sử, đời nối đời
làm nông nghiệp trên mảnh đất nhiều thiên tai, địch họa: “Trông trời, trông đất,
trông mây/ Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá
mềm/ Trời yên biểm lặng mới yên tấm lòng.” Đó là một dân tộc chuộng lối sống ôn
hoà, khoan dung, "mềm như nước" mà cũng "cứng như nước"…
Một dân tộc yêu hòa bình như Việt Nam
là một dân tộc sẵn sàng ra trận để bảo vệ hòa bình trên xứ sở của mình. Võ
Nguyên Giáp là vị tướng của hoà bình
theo nghĩa đó. Có thể nói, ông là biểu trưng của văn hoá quân sự Việt Nam. Những
kẻ thù xâm lược đất nước Việt Nam, áp đặt ách thống trị lên dân tộc này đều
không hiểu hết cái nhẽ “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng” đó. Cũng có thể nói,
chính cái “chẳng đừng” ấy mà đã có những
Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp… như chúng ta thấy.
-PV: Có ý kiến rằng "nhiều vị tướng tài giỏi tỏa sáng
trong chiến trận và coi cầm quân là cơ hội bộc lộ tài năng nhưng Đại tướng Võ
Nguyên Giáp lại không phải vậy”. Ông có ý kiến gì về nhận định đó?
- PGS.TS Hồ Khang: Đại tướng Võ
Nguyên Giáp là vị tướng không theo hình mẫu “thần chiến tranh” như thế. Những
vị tướng hiện diện trong lòng dân tộc Việt Nam có một hình ảnh riêng: Thánh
Gióng chỉ lớn lên khi có địch đến, Trần Hưng Đạo, Quang Trung đều cốt giữ yên
bờ cõi để gìn giữ hòa bình.
Hãy nói đến Hưng Đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, ông nói với vua Trần Nhân Tông, đại ý, dùng binh cốt
phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải
từ lúc thái bình khoan thư sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thuật
giữ nước hay hơn cả. Triều đại nào mà dựa vào "thành cao, hào sâu"
thì cũng dẫn đến mất nước vì đó là biểu hiện của sự xa dân, không tin vào dân,
mà lòng dân thì nói như Nguyễn Trãi " chúng chí thành thành"- lòng
dân mới là bức trường thành giữ nước. Mọi chính thể, mọi vương triều nếu chỉ
dựa vào vũ lực đều không tồn tại được bao lâu. Quyền lợi của vương triều nào
khớp khít với quyền lợi của nhân dân, của dân tộc thì sẽ vững bền.
Nhớ lại trong lịch sử, ngọn cờ của Lê
Lợi dẹp giặc Minh đem đến hòa bình là khát vọng tiềm tàng trong tư tưởng vì dân của Nguyễn Trãi. Lịch sử từng ghi
lại Nguyễn Trãi đã có lần đến Lam Sơn rồi lại quay về, nhưng sau đó ông quyết định
đặt ước vọng của nhân dân lên trên và quay trở lại giúp Lê Lợi dựng nghiệp lớn,
cứu nước cứu dân khỏi “quân cuồng Minh.” Nhân tài, tuấn kiệt trên đất nước này
không bao giờ vắng, nhưng những "tinh hoa" ấy chỉ hiển lộ và đóng góp
khi người lãnh đạo thực sự vì Đại Nghĩa của dân tộc, vì quyền lợi và khát vọng
của nhân dân.
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp là hiện thân của truyền thống quân sự như vậy. Ông làm tất
cả chỉ để giành lại và giữ vững nền độc lập, tự do, vẹn toàn lãnh thổ, sự hoà
hiếu giữa các dân tộc. Đó chính là cốt cách của vị tướng xuất thân từ một nền
văn hóa trọng hòa bình. Sức mạnh chống ngoại xâm là để thực hiện ý nguyện ngàn
đời vì hòa bình. Điều này nên làm rõ: rằng dân tộc ta không ưa chiến tranh,
nhưng không sợ chiến tranh, nếu đó là cuộc chiến chính nghĩa, vì nền độc lập,
hòa bình của dân tộc.
Chiến
tranh là chính trị được thực hiện bằng bạo lực, nhưng bạo lực mạnh nhất, bạo
lực cách mạng, lại luôn là bạo lực của nhân dân. Là Tổng chỉ huy quân đội trong
30 năm chiến tranh, Đại tướng luôn hiểu rõ điều ấy.
Nghĩ về Đại tướng, hình ảnh luôn hiển
hiện trong tâm trí tôi là Đại tướng lặng kẽ khóc khi nghe tin bộ đội ta hy sinh.
Cũng như Hồ Chí Minh, Đại tướng không thấy những chiến công là cao hơn xương máu của
quân dân. Chính lòng bác ái đó khiến Đại tướng là điểm hội tụ sức mạnh của
quân-dân Việt Nam. Nhân đây cũng nói, Đại tướng luôn có mối quan tâm dành cho
giáo dục. Đại tướng nhấn mạnh việc giáo dục tri thức, giáo dục nhân cách, giáo
dục lòng yêu nước, giáo dục kỹ năng. Sự giáo dục như thế luôn là cần thiết đối
với một dân tộc luôn phải đối đầu với tham vọng của những cường quốc thế giới,
chỉ bằng giáo dục mà tinh thần và trí tuệ của quân-dân mới luôn đảm bảo cho sức
mạnh của dân tộc Việt Nam được phát huy và kế thừa đích đáng qua nhiều thế hệ.
- PV: Ấn tượng của ông khi gặp Đại tướng?
- PGS.TS Hồ Khang: Có lần, theo yêu cầu của Đại tướng, lãnh đạo Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam cử tôi vào làm việc với Đại tướng, ấn tượng của tôi là Đại
tướng rất rành rẽ từ cách hỏi, cách ghi. Tuổi cao nhưng Đại tướng rất tinh anh,
đặt câu hỏi và trao đổi ngắn gọn, rõ ràng.
Công lao, vai trò tổng chỉ huy của Đại
tướng trong trận Điện Biên Phủ, trong cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975 sử
sách đã ghi. Vậy mà ở ngoài đời Đại tướng rất bình dị, gần gũi. Tôi nghĩ, hơn
ai hết, Đại tướng xứng đáng là một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: bao giờ cũng
vậy, sự bình dị của những người lãnh đạo chính là dấu chỉ cho thấy mối quan hệ
với nhân dân của họ. Xa hơn điều đấy, từ Đại tướng, tôi cho rằng, niềm kiêu
hãnh của một quân nhân là sự thừa nhận của nhân dân, và kiêu hãnh rằng mình từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
- PV: Về Đại tướng Võ Nguyên Giáp và việc giữa gìn biển đảo, với tư cách là
một nhà nghiên cứu lịch sử quân sự, ông có nhận xét gì?
- PGS.TS Hồ Khang: Phải nói rằng, khi đương chức cũng như lúc trở về đời
thường, Đại tướng luôn để tâm sức vào
việc giữ gìn, dựng xây Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó có việc giữ gìn chủ
quyền Việt Nam ở biển Đông cùng các đảo, quần đảo trong vùng biển này. Việc Đại
tướng thường có những chỉ đạo, huấn lệnh sát sao, kịp thời cho Hải quân nhân
dân Việt Nam là một minh chứng cho sự quan tâm đó của ông.
Đại tướng thấy rõ tầm quan trọng của
biển Đông và hiểu sự quan tâm của nước ngoài đối với vùng biển này. Vì thế,
thái độ và hoạt động của nước ngoài ở biển Đông được Đại tướng quan tâm, chú ý
và gắn điều này với việc bảo vệ biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam. Tháng 3 năm
1975, khi quân và dân ta giành thắng lợi lớn ở Tây Nguyên, sự tồn tại của Việt
Nam cộng hoà chỉ còn tính từng ngày, đồng thời ở biển Đông có hải quân nhiều
nước hoạt động, Đại tướng đề nghị Bộ Chính trị cho giải phóng biển đảo thuộc
chủ quyền Việt Nam cùng lúc với việc
tấn công vào Sài Gòn. Lúc này, về việc giải phóng biển đảo thuộc chủ quyền Việt
Nam, trong chỉ thị cho đồng chí Lê Trọng Tấn vào tháng 4 năm 1975, Đại tướng
yêu cầu phải kiên quyết, táo bạo,
đánh chiếm ngay khi thời cơ đến và kiên quyết giành lại nếu đảo đã bị nước
ngoài chiếm. Như thế, Đại tướng chỉ cho chúng ta thấy rằng, đối với vấn đề
biển đảo, phải kiên định về nguyên tắc; hành động phải dứt khoát, khẩn trương,
nắm bắt và tranh thủ thời cơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!