Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI


PGS,TS. Hồ Khang
Đại tá, PGS.TS Hồ Khang, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, người đã cùng các đồng nghiệp dành nhiều thời gian nghiên cứu, biên soạn nhiều công trình lịch sử, đặc biệt là hai bộ Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (7 tập) và bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (9 tập). Ngoài ra ông còn nghiên cứu sâu một số chủ đề liên quan tới hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, và đã đạt được một số kết quả cụ thể dùng cho công tác giáo dục, đào tạo nói chung. Tạp chí Xưa & Nay đã có cuộc trò chuyện xung quanh những vấn đề và thành tựu nghiên cứu của ông.

          * XưaNay: Tại sao Đại tá lại chọn nghiên cứu mảng đề tài chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh thời kỳ hiện đại?
* PGS.TS Hồ Khang:
Tôi vốn học từ Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ra trường, tôi công tác tại Ủy Ban Khoa học Xã hội Việt  Nam. Rồi tôi nhập ngũ, sau đó lại về công tác tại Viện Lịch sử Quân Sự Việt Nam. Hơn 30 năm công tác tại Viện, có lẽ việc lựa chọn mảng để tài chiến tranh Việt Nam hiện đại cũng là một điều tất nhiên. Nhưng tôi cũng có lý do cá nhân cho sự lựa chọn ấy.
Tôi thường suy nghĩ về việc nghiên cứu lịch sử, hãy nói một chút về việc nghiên cứu lịch sử. Nghiên cứu lịch sử là nhằm tới việc đưa ra những tri thức lịch sử, giúp chúng ta giải mã chính mình và giải quyết những vấn đề đang đặt ra đối với chủ thể của lịch sử ấy. Trên ý nghĩa đó, nghiên cứu lịch sử cũng chính là cuộc đối thoại bất tận giữa hiện tại với quá khứ. Tôi cho rằng, tri thức lịch sử phải là sự nối kết cái đương thời với cái đã qua như thế. Trên hết, cuộc đối thoại đó xảy ra vì tương lai, vì những gì mà chủ thể của lịch sử  - dù là con người, giai cấp, các cộng đoàn tôn giáo chính trị hay dân tộc, nhân loại,… sẽ còn phải đi đến, đối mặt và trở thành. Vì chúng ta đã không còn ngạc nhiên rằng, người nào thiếu hiểu biết về lịch sử, người đó rất có thể sẽ lặp lại những sai lầm lịch sử một lần nữa.
Trong số các tri thức lịch sử mà chúng ta đã có về dân tộc mình, thì tri thức về lịch sử chiến tranh lại không hề chiếm ưu thế so với các mảng tri thức lịch sử khác, mặc dù cũng có thể thấy dấu ấn của nó. Một phần lý do là vì, mỗi triều đại lịch sử thường đều say mê miêu tả và tư biện cho bản thân triều đại ấy hơn là đúc rút kinh nghiệm từ xương máu phải đổ xuống và suy nghĩ về nền hòa bình. Lại có một khoảng cách giữa tri thức lịch sử về chiến tranh với đời sống, cũng vì thế trong tâm thức lịch sử người Việt, sức sống của tri thức về lịch sử chiến tranh nhường chỗ cho những mong ước hòa bình và ổn định. Ngay trong tư duy huyền thoại của người Việt Nam, cũng không có một lối anh hùng ca nào có sức sống hoặc ảnh hưởng sâu rộng, cùng lắm ta chỉ có những ký ức vụn vặt kiểu dân gian về những anh hùng chiến tranh như Thánh Gióng – đó là chưa nói rằng, sức hấp dẫn của Thánh Gióng có thể cũng không hoàn toàn nằm trong chiến công, mà trong nguồn gốc kỳ lạ và kết thúc bất ngờ. Tôi muốn nói về điều này, trong sâu thẳm, đa phần người Việt Nam, như tôi nhận thấy, đều ưa chuộng hòa bình, có điều tình yêu hòa bình của chúng ta lại dẫn đến sự thờ ơ với chiến tranh hơn là ưu tư về nó. Vì thế, những tổng kết sâu sắc về chiến tranh không thực sự có nhiều. Chúng ta có thể nhớ đến lời Trần Hưng Đạo trước khi qua đời, hay lời của Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, hoặc những tổng kết trong Bình Ngô Đại Cáo, hoặc ý chí của Tây Sơn, nhưng quả thật cũng không có nhiều những điều như thế để suy ngẫm.
Hơn nữa, tư duy và tri thức về chiến tranh lại có xu hướ/ng khu biệt hóa nó với những vấn đề chính trị - xã hội – kinh tế - văn hóa của tổng thể thời đại mà nó được đặt vào và từ đó tạo ra những bối cảnh kế tiếp, chính vì thế mà tri thức lịch sử của chúng ta thường mất đi sức sống xã hội của nó. Để một tri thức lịch sử có sức sống xã hội là điều khó khăn ở mọi nền văn hóa, cũng là vấn đề của mọi nền văn hóa, vì quá trình trao truyền tri thức lịch sử lại cũng là quá trình cố định hóa những mã gen bản sắc của một cộng đồng, dân tộc. Không thể chỉ qua lễ hội và huyền thoại, mà còn cần đến giáo dục chính quy và s`ự quan tâm từ phía chính trị.
Trong khi những thời đại lịch sử lùi sâu vào quá khứ để dần dần ngủ quên và phai mờ những ấn tượng sinh động của nó, thì chúng ta lại mới chỉ vừa đi qua cuộc kháng chiến 30 năm chưa lâu, với hệ thống tư liệu tốt nhất, mặc dù vẫn còn nhiều tư liệu chưa giải mật, về một cuộc kháng chiến cũng lâu dài nhất và trả giá bằng nhiều xương máu nhất mà người Việt Nam buộc phải thực hiện – vậy nếu phải nghiên cứu lịch sử chiến tranh, thì 30 năm đó là đáng nghiên cứu nhất trong mọi giai đoạn lịch sử có thể lựa chọn. Tôi cho rằng nghiên cứu chiến tranh cận và hiện đại ở Việt Nam đặc biệt quan trọng, vì nhiều câu hỏi của chúng ta hôm nay và tương lai vẫn đang nằm trong chính cuộc chiến đó. Đây không chỉ là vấn đề “bài học lịch sử”, mà là vấn đề trực tiếp: cấu trúc xã hội – chính trị (cả đối nội và đối ngoại) - văn hóa của Việt Nam hôm nay vẫn đang đặt nền trên những vấn đề hậu chiến và giải chiến. Nói rõ hơn, tôi cho rằng, xã hội  chúng ta đang ở trong một không-thời gian kéo dài và chưa đi đến những chuyển biến về chất sau chiến tranh 30 năm, và thời đại hôm nay đích thực vẫn đang được gọi là “thời kì quá độ”. Tôi cũng muốn nói thêm rằng, không thể lý giải những hiện tượng lịch sử - chính trị - xã hội – văn hóa của Việt Nam ngày nay mà không nhìn nó trong một dải sự kiện trải dài từ những biến cố đứt gãy cấu trúc trong chiến tranh, cũng có nghĩa là bị tái cấu trúc ngay trong chiến tranh, để dần đi đến những biến đổi hình thức trong thời hiện đại. Ở cái nhìn đó, chiến tranh là nhân tố cốt lõi nhất và trung tâm nhất của lịch sử Việt Nam cận và hiện đại, như thế, cũng là vấn đề căn bản nhất của chính xã hội Việt Nam ngày nay. Tôi muốn nhắc lại điều này, rằng chúng ta chỉ có thể bảo vệ hòa bình bằng cách thấu hiểu chiến tranh, chắc chắn là như vậy.
Dĩ nhiên tôi không hề có ý nói rằng tôi đã hoàn thành được những ý nguyện nghiên cứu đúng như định hướng nhận thức của mình. Chắc chắn rằng, để sử học có thể tạo đà cho khoa học xã hội phân tích triệt để xã hội và thời đại mà nó đặt vào, từ đó hướng đến những định hướng lớn cho dân tộc, chúng ta cần có một hệ thống các nhà nghiên cứu có chung khát vọng, thậm chí cần tổ hợp thành một số những trường phái nghiên cứu có tính hiện đại, nếu không, những nghiên cứu thảng hoặc và rời rạc không thể tạo lập lại vị thế của sử học như đã từng có trong lịch sử dân tộc. Trái lại, nếu không đổi mới và cách tân một cách có hệ thống sử học, có thể sử học sẽ đánh mất vai trò dẫn đạo khoa học xã hội.

* XưaNay: Kết quả nghiên cứu của ông đã lý giải được những câu hỏi nào đang đặt ra với công chúng?
* PGS.TS Hồ Khang: Trước hết, tôi muốn nói, với người nghiên cứu, căn bản có hai nhóm công chúng: một là những đồng nghiệp và những học giả quan tâm, thứ hai là những người không làm trong ngành sử nhưng muốn tìm hiểu lịch sử. Trong hoàn cảnh của tôi, có thể của thế hệ tôi, để có sự ngăn cách rạch ròi giữa hai đối tượng này là khá khó. Những gì chúng tôi thực hiện trong công việc của mình, đặc biệt với tư cách là một nhà sử học, là cố gắng để lại những ghi nhận khoa học và tri thức khoa học, thực sự không dễ dàng gì hướng trực tiếp tới công chúng xét như số đông mọi người. Hình thức quan phương của khoa học đã ngăn cản điều này, tôi là một nhà nghiên cứu ở trong thế hệ quy cách và quan phương đó, vì thế tôi cũng thấy rằng đối tượng “công chúng” của tôi chắc chắn sẽ hạn chế.
Những năm qua, tham gia cùng đồng nghiệp nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (bộ 7 tập) và bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (bộ 9 tập), tại các công trình này, ngoài việc đảm nhiệm các nội dung được phân công, tôi dành thời gian tìm hiểu, nghiên cứu sâu một số chủ đề liên quan tới hai cuộc kháng chiến của dân tộc ta, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nên đã đạt được một số kết quả cụ thể, thể hiện ở danh mục các công trình khoa học đã được công bố, bao gồm nhiều bài báo khoa học đã đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc các kỷ yếu hội thảo khoa học và các cuốn sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình dùng cho công tác đào tạo đại học và sau đại học. Đây là những công trình đề cập tới một số vấn đề, nhằm góp phần làm rõ những nhân tố liên quan tới nguồn gốc chiến tranh, tới sự điều hành của các cơ quan chỉ đạo chiến lược của phía Việt Nam và đối phương và nghệ thuật quân sự Việt Nam...trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta - những cuộc kháng chiến mang tầm vóc thời đại lớn lao và chứa đựng trong đó nhiều vấn đề khoa học cần tiếp tục được làm rõ.
Cho đến nay, sau gần 40 năm kể từ ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vẫn còn không ít những vấn đề đặt ra cho giới sử học. Ví dụ như, tính chất cuộc chiến tranh là “nội chiến” hay không? Có hay không những cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ - vấn đề mà vì nó, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc. Namara đã hai lần sang Việt Nam kể từ sau khi cuộc chiến Việt - Mỹ kết thúc để tìm hiểu và thảo luận với phía Việt Nam. Cũng thế, xung quanh sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân hoặc vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong toàn bộ cuộc chiến tranh, cho đến nay vẫn còn có những nhìn nhận đánh giá khác biệt, và nhiều vấn đề phức tạp khác... Đối với các vấn đề như thế, trong quá trình nghiên cứu, tôi đã cố gắng cùng đồng nghiệp của mình đi sâu làm rõ và đã có một số kết quả nghiên cứu bước đầu. Về kết quả nghiên cứu của bản thân, đối với tôi, chủ đề về Hậu phương trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nướcSự kiện lịch sử Tết Mậu Thân 1968 là trọng tâm nghiên cứu.
Từ những nghiên cứu như thế, tại các công trình đã công bố, tôi rút ra một số thành công cũng như hạn chế của quá trình xây dựng hậu phương; nêu ra một số nhận xét tổng quát về quá trình này. Tổng kết lại, có thể thấy rằng, xây dựng hậu phương là quá trình quán xuyến phương châm tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ; là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ, giữa động viên nhân tài vật lực với chăm lo bồi dưỡng sức dân bằng những chủ trương và giải pháp đúng đắn, kịp thời, đồng bộ, phù hợp với điều kiện thực tế và phản ánh ý chí, khát vọng của mọi người Việt Nam yêu nước: xây dựng hậu phương vững mạnh để tạo điều kiện tiền đề vật chất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Dân tộc.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 chiếm giữ một vị trí to lớn trong toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Từ bao năm qua, Tết Mậu Thân là chủ đề thu hút sự chú ý đối với giới nghiên cứu trong nước và quốc tế bởi tầm quan trọng và tính phức tạp chứa đựng trong bản thân sự kiện lịch sử này. Mặc dù đã có không ít cuốn sách, bài báo, hội thảo khoa học đề cập tới Tết Mậu Thân, nhưng cho tới nay, xung quanh sự kiện lịch sử này, vẫn còn nhiều vấn đề đang được đặt ra, nhiều ý kiến đánh giá vẫn còn sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau khá gay gắt...
* XưaNay: Ông có nhận định hoặc đánh giá như thế nào về sự quan tâm của thế hệ trẻ hiện nay đối với vấn đề này?
* PGS.TS Hồ Khang: Tôi thấy trước hết nên nói xem thế hệ trẻ đối với lịch sử  và tri thức lịch sử thế nào. Tình yêu tri thức là điều tự nhiên của người trí thức, không có nó thì cũng không phải người trí thức. Nhưng quan niệm về “sự quan tâm” đến tri thức rõ ràng cũng khác nhau theo từng bối cảnh. Tôi cho rằng trong thời đại thông tin, người ta thích đi tìm những tri thức dễ tiếp thu, có tính kích thích  hơn là những tri thức đòi hỏi sự suy ngẫm, tìm tòi, hiểu biết rộng… Tôi cũng đã nói, thiếu sự trầm tư về chiến tranh, thì sẽ thờ ơ với hòa bình. Chúng ta có thể tổ chức nhiều phong trào, ban đầu đem lại kết quả rất tích cực, động viên được đoàn thể to lớn, nhưng sau đó thì tan biến cũng nhanh, chính là vì những người tham gia không có đủ tri thức về vấn đề họ đang nhập thân vào. Thiếu tri thức thì cũng dễ bị kích động, trở thành một phần trong đám đông mù mờ của lịch sử, chắc chắn là như vậy.
 Vì thế, tri thức lịch sử mà những người làm về chiến tranh mang lại thường không được quan tâm ở diện rộng, dĩ nhiên chuyện này cũng có phần lỗi của phương pháp mà chúng ta đưa lại tri thức cho thế hệ kế tiếp. Ngày nay, tôi nghĩ, ngoài một số các trí thức trẻ đam mê và tìm hiểu cặn kẽ mọi vấn đề lịch sử, đa phần thế hệ trẻ thích đọc những tin sử vắn tắt, những lời phiếm đàm lịch sử, cũng vì thế nhanh chóng tiếp thu những phát ngôn nhất thời, hơn là nhìn nhận và đào sâu vào tri thức lịch sử để tự tìm được chân lý cho mình. Lại phải nói lại, ngoài nguyên nhân về sự mở rộng thông tin, thì cũng còn do cách chúng ta trao truyền tri thức nữa. Ở mặt này, cá nhân tôi nghĩ rằng, có lẽ cả đến những nghiên cứu lịch sử “kinh điển” cũng không hấp dẫn số lượng lớn người đọc nữa.
Vấn đề lịch sử mà tôi đặt trọng tâm nghiên cứu vào lại càng lùi xa so với hiện tại, vì thế tôi nghĩ “công chúng” của chúng tôi đa phần là giới nghiên cứu hoặc những người cần tài liệu để thực hiện vài tiểu luận cấp bách. Cũng vì thế, trong giới sử học từ trước tới nay, một tác phẩm thành công rốt cuộc lại là có được những người nghiên cứu quan tâm hay tán thành không, chứ không phải ở sức lan tỏa xã hội về tri thức mà nó tạo nên được.
XưaNay: Xin cảm ơn Đại tá, PGS.TS Hồ Khang.

Trần Hồng Ánh (thực hiện)

Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!